Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm

Nhận xét đề thi và hướng ôn tập

Đề tham khảo Ngữ văn 2018 có phần kiến thức lớp 11 bổ sung trong kiểu đề so sánh của câu nghị luận văn học như đề mấy năm thi theo khối riêng đòi hỏi thí sinh cần năng lực tổng hợp. Cấu trúc đề, yêu cầu và mức độ phân hoá... như đề thi THPT quốc gia 2017.

Đề gồm 2 phần. Phần đọc hiểu (3 điểm) gồm một ngữ liệu đọc hiểu và 4 câu hỏi theo các mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao nhưng chỉ có một câu 1 là nhận biết.

Phần Làm văn gồm 2 câu: câu nghị luận xã hội 2 điểm, gắn kết chặt chẽ với ngữ liệu đọc hiểu hướng tới yêu cầu bàn luận về vấn đề mang ý nghĩa thông điệp của đoạn trích. Làm câu viết đoạn nghị luận xã hội, học sinh cần nắm chắc nội dung vấn đề trải nghiệm đã được trình bày trong ngữ liệu trích dẫn.

Câu nghị luận văn học (5 điểm) có sự thay đổi bởi sự xuất hiện yêu cầu kiểm tra kiến thức lớp 11 và 12 như lộ trình yêu cầu ôn tập đã công bố của Bộ Giáo dục, năm 2019 sẽ gồm cả kiến thức lớp 10, 11 và 12.

Theo đề tham khảo (năm nay không dùng chữ minh họa), mức độ kiểm tra, đánh giá toàn diện về kiến thức và kĩ năng : kiến thức văn học và cuộc sống, kiến thức lớp 11 và 12, kiến thức tiếng Việt, kiến thức viết đoạn và văn học... kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng Nghị luận...Với yêu cầu so sánh, học sinh khối Tự nhiên sẽ gặp khó khăn khi năng lực văn học còn lơ mơ và kỹ năng so sánh cũng thiếu. Nếu đề chính thức sử dụng cách kiểm tra này, phần nhiều các em sẽ phân tích hoặc kể lại hai tác phẩm. Do vậy, mức độ phân hóa sẽ cao hơn.

Học sinh không chỉ ôn luyện các kiến thức có trong sách giáo khoa lớp 12, mà cần ôn cả kiến thức có trong chương trình lớp 11, chủ yếu là các tác phẩm thuộc phần văn học hiện đại lớp 11.

Theo nhiều thầy cô Ngữ văn, với tâm lý chống liệt của phần nhiều thí sinh, rất khó có thể buộc các thí sinh quay lại ôn tác phẩm lớp 11, nhất là kỹ năng làm bài nghị luận so sánh.

Việc tổ chức và hướng dẫn ôn tập như thế nào hiệu quả tùy thuộc vào từng cá nhân và nhà trường. Theo tôi, trước hết cần giúp thí sinh ổn định tâm lý ôn tập. Mức độ phân hóa của đề tham khảo chỉ là định hướng chung kiểm tra đánh giá và tuyển sinh. Tránh quan niệm cứng nhắc ép học sinh ôn luyện các đề bài kiểu so sánh như vài năm trước.

Mặt khác, thầy cô Ngữ văn nên giúp các trò nắm chắc kiến thức cơ bản, ngắn gọn một số tác phẩm quan trọng. Nên hướng học sinh làm quen và vận dụng tốt các kỹ năng phân tích và nhận xét; kỹ năng lập luận so sánh (học ở lớp 11) và kỹ năng viết câu, dựng đoạn và diễn đạt ý kiến. Một sai lầm tệ hại là hiện nay không ít thầy cô vẫn bắt học sinh học thuộc lòng bài mẫu của học sinh khá giỏi rất dài, rất khó nhớ. Người thầy có lòng tự trọng và thương trò sẽ hướng dẫn thí sinh cách xử lý đề và viết bài chứ đừng dạy các em học thuộc.

Kết quả thi của thí sinh phục thuộc rất nhiều vào việc xây dựng kế hoạch và hướng dẫn ôn tập của giáo viên theo hướng phù hợp từng trường và nhóm đối tượng. Không đòi hỏi quá cao và quá nhiều nội dung ôn tập, không tạo tâm lý áp lực trong học sinh vì quá tải kiến thức nên không biết ôn tập bài nào, phần nào.

Đề thi tham khảo và gợi ý bài giải

I.Đề thi tham khảo Ngữ văn 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐỀ THI THAM KHẢO

KỲ THI TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA NĂM 2018 Bài thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm. Vì thế, hãy chấp nhận điều đó như một lẽ tự nhiên. Khi trẻ học nói, học đi hay bất cứ điều gì, chúng đều phải nếm trải những va vấp. Chúng ta cũng vậy, có thể đằng sau những tư tưởng vừa lĩnh hội, hoặc sau sự chín chắn rèn giũa được là một thất bại, hay một bước lùi nào đó. Tuy nhiên, đừng đánh đồng những sai lầm ấy với việc ta không thể trưởng thành. Hãy hiểu rằng, như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần và hãy tin tưởng rằng mọi trải nghiệm đều đem lại cho ta những bài học quý giá nếu ta biết trân trọng nó.

Chính vì vậy, đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự. Dĩ nhiên, để đạt được điều mình mong muốn, ta phải không ngừng nỗ lực. Nhưng đừng yêu cầu cuộc đời phải viên mãn thì ta mới hài lòng và cũng đừng đòi hỏi mọi mối quan hệ phải hoàn hảo thì ta mới nâng niu trân trọng. Hoàn hảo là một điều không tưởng. Trên đời, chẳng có gì là hoàn thiện, hoàn mĩ cả. []

Khi kiếm tìm sự hoàn hảo, người ta dễ trở nên hà khắc, hay phán xét bản thân và mọi người. Bởi vậy, trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có.

(Theo Quên hôm qua sống cho ngày mai - Tian Dayton, Ph. D,

biên dịch: Thu Trang Minh Tươi, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr.68 - 69)

Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Câu 2. Theo tác giả, vì sao đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự?

Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến: như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần?

Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan niệm: trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có? Vì sao?

II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm) Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/chi ̣hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự trải nghiệm trong cuộc sống.

Câu 2 (5.0 điểm)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo duc Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo duc Việt Nam, 2016) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người.

- HẾT-

Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.

Họ và tên thí sinh:...............; Số báo danh:

II. Gợi ý GIẢI ĐỀ THI THAM KHẢO THPT QUỐC GIA 2018 MÔN NGỮ VĂN

I.ĐỌC HIỂU

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: nghị luận. (0,5 điểm)

Câu 2. (Dựa vào ngữ liệu trả lời ngay) Mỗi ý được 0,25 điểm. Bởi vì:

+ Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm.

+ Mọi trải nghiệm đều đem lại cho ta những bài học quý giá nếu ta biết trân trọng nó.

Câu 3. (1,0 điểm) Nên hiểu ý của câu nói trong đề là: đây là một quy luật trong cuộc sống, không ai có thể chiến thắng liên tiếp và thất bại luôn song hành cùng với thành công. Sau mỗi thành công trong cuộc đời và công việc, con người cần suy ngẫm, chiêm nghiệm để thấy mình đã làm được những gì và có thể rút ra những bài học cần thiết.

Câu 4. (1,0 điểm) Học sinh cần trình bày suy nghĩ của mình theo hướng làm rõ và khẳng định hoặc phủ định ý kiến: trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có.

- Nếu khẳng định ý kiến trên đúng, học sinh cần làm rõ ý: cuộc sống luôn biến động và không thể hoàn hảo như mong ước nên chúng ta cần chấp nhận những thứ vốn có, không ảo tưởng xa vời. Từ việc chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có, con người có thể hòa nhập chung sống và phát triển. Mỗi cá nhân cần tự lực, tự chủ, khiêm tốn và ứng xử hòa hợp giữa cái tôi và cái ta. Chấp nhận mình để không quá hà khắc với bản thân, chấp nhận người để không quá khắt khe với mọi người. Bên cạnh đó, nếu không biết chấp nhận, con người rất dễ bi quan, tuyệt vọng, bế tắc và bị cô lập trong cuộc sống

- Nếu phủ định ý kiến trên, cần làm rõ: cuộc sống luôn đổi thay mau lẹ, sự chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có có thể biến con người thành kiến, ích kỷ, lạc hậu, không bắt kịp xu thế chung của cuộc sống. Điều đó có thể đẩy con người đến quan điểm sống thu mình, nhỏ nhen và khó được chấp nhận trong cộng đồng xã hội con người hiện đại..

- Nếu lập luận theo hướng vừa khẳng định vừa phủ định ý kiến thì cần trình bày kết hợp cả hai nội dung trên.

II. LÀM VĂN

Câu 1

1. Hình thức:

- Trình bày đúng hình thức một đoạn văn (đầu đoạn viết lùi vào, viết hoa, có dấu chấm hết đoạn).

- Dung lượng đoạn văn: khoảng 200 chữ (khoảng 1 1,5 trang giấy thi, không được viết dài quá tốn nhiều thời gian. Nên nhớ là có 120 phút, mỗi điểm khoảng 10 phút, 2 điểm khoảng 20 phút).

- Học sinh nên chọn cách diễn dịch (câu chủ đề ý nghĩa của sự trải nghiệm trong cuộc sống )

2. Nội dung: Học sinh có thể nêu các nội dung cơ bản sau

Nêu vấn đề cần nghị luận: vài trò của trải nghiệm đối với cuộc sống.

- Giải thích: Trải nghiệm là tự mình trải qua thực tế để có được hiểu biết và kinh nghiệm; tích lũy được nhiều kiến thức, kỹ năng và vốn sống.

-Phân tích, bình luận: Trải nghiệm đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với mỗi người.

+ Giúp ta thêm hiểu biết và kinh nghiệm thực tế; giúp ta mau chóng trưởng thành về cách nghĩ, cách sống, bồi đắp tình cảm, tâm hồn, giúp mỗi người gắn bó và góp phần cống hiến cho cuộc đời, cho đất nước.

+ Mỗi người khám phá chính mình để hiểu và điều chỉnh suy nghĩ và hành vi.

+ Mỗi người nỗ lực học hỏi qua thử nghiệm để sáng tạo; biết cách vượt qua những trở ngại khó khăn, tôi luyện bản lĩnh, ý chí để thành công.

+ Thiếu trải nghiệm mỗi người sẽ sống đơn điệu, thụ động và không cảm nhận được giá trị và sự hấp dẫn của cuộc sống. (Minh họa một vài dẫn chứng, tránh lý giải dài dòng.)

- Ý nghĩa, bài học:

+ Người ta ai cũng rất cần trải nghiệm để khám phá cuộc sống và chính mình. Phê phán một số quan niệm sai lầm về trải nghiệm của thanh niên hiện nay (mải mê chơi, mê học và xem thường trải nghiệm dẫn đến ứng xử cực đoan và lúng túng). Phê phán quan điểm sai lạc cái gì cũng thử trải nghiệm của tuổi trẻ hiện nay (sống thử, yêu thử, làm thử..)

- Cần nhận thức vai trò quan trọng và cần thiết của trải nghiệm, biết trải nghiệm khôn ngoan để trưởng thành, vững vàng và sống hạnh phúc.

-Khẳng định tầm quan trọng của trải nghiệm.

Câu 2:

Nội dung cần làm rõ các trọng tâm sau:

+ Trước Cách mạng tháng Tám, ông là nhà văn tài hoa nhưng bất đắc chí với ba đề tài.

+ Sau Cách mạng tháng Tám, ông hòa vào đời sống nhân dân. Sự thống nhất trong quan điểm sáng tác trước và sau 1945 của ông là nghệ sĩ săn tìm và ca ngợi cái đẹp, cái lạ lùng của con người và cuộc sống..

1.Cảm nhận ông lái đò trong cảnh vượt thác (ý chính)

+ Ông lái đò Lai Châu là người từng trải, giàu kinh nghiệm. Ông lái đò thông minh, lẫm liệt như một dũng tướng điều khiểm con thuyền 6 bơi chèo qua trùng vi thạch trận hơn 60 lần.

+ Phá vòng vây số 1:

Bị thác dữ bày binh bố trận, bủa vây, chặn đánh, vẫn quyết tâm kiên cường chiến đấu. Vượt lên nỗi đau bị thương, vẫn bình tĩnh, nén đau, lái thuyền chính xác từng động tác vượt thác.

+ Phá vòng vây số 2:

Không chủ quan lơ là, sử dụng các kinh nghiệm, các chiến thuật, dũng mãnh, tài hoa như người trên lưng cọp. Bị trận địa đá mai phục bất ngờ, nhưng vẫn chính xác từ lời nói đến hành động lái con thuyền xuyên thẳng vào dòng thác dữ.

+ Phá vòng vây số 3:

Thuyền phóng như mũi tên tre, phóng thẳng vào chỗ sơ hở của bọn đá lái miết và bỏ lại thác nước xèo xèo sau lưng. Ông lái đò trí dũng, tài hoa như nghệ sĩ sông nước; người lao động anh hùng chinh phục thác dữ nhưng cũng rất giản dị và yêu nghề

- Về nghệ thuật xây dựng nhân vật ông lái đò:

+ Sử dụng thủ pháp tương phản của văn học: thiên nhiên càng hung dữ bao nhiêu, con người càng vĩ đại, to lớn bấy nhiêu.

+ Sử dụng ẩn dụ, so sánh để tạo cảm giác mạnh, ấn tượng.

+ Sử dụng tri thức nhiều lĩnh vực quân sựm, thể thao, hội họa, điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, lái đò, địa lý, lịch sửvà văn hóa để miêu tả cảnh vượt thác của ông lái đò sông Đà.

2. Liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ để làm sáng tỏ quan niệm nghệ thuật về con người. ( ý nâng cao, đòi hỏi học sinh tư duy tổng hợp, tránh kể lại tác phẩm)

- Giống nhau: nhân vật Huấn Cao và ông lái đò đều là những người có vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.

+ Huấn Cao: Trong cảnh ngục tù tối tăm, ông vẫn viết chữ, viết sáng tạo ra cái Đẹp. Huấn Cao đã dành những giây phút cuối đời mình để viết chữ. Hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tay dậm tô từng nét chữ mang nhiều ý nghĩa cho nhân vật. Nghệ sĩ có tấm lòng thiên lương, tài hoa và khí phách hiên ngang lúc nào cũng tự do, phóng khoáng về tâm hồn, lúc nào cũng muốn làm điều tốt đẹp cho đời ngay cả khi sắp từ giã cuộc sống. Cái đẹp chiến thắng.

Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm

+ Người lái đò: Ông làm công việc mưu sinh thường ngày nhưng ông vượt thác với sự tài hoa và cả lòng yêu nghề. Nó không còn là cuộc vật lộn giành sự sống mà ông lão lái đò được miêu tả với những động tác tài giỏi, thành thạo, chính xác và đẹp như người nghệ sĩ trên sông nước.

Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm

- Khác nhau:

+ Huấn Cao: Con người của một thời vang bóng, tài hoa, thiên lương và khí phách hiên ngang. Vẻ đẹp lãng mạn về người nho sĩ lý tưởng thời phong kiến.

+ Người lái đò: Con người của cuộc sống, người lao động bình thường được miêu tả trong sự hài hòa, chân thực và lãng mạn nên có sức thuyết phục.

* Quan niệm về con người:

+ Con người luôn được nhìn và miêu tả, khám phá ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.

+ Sự chuyển biến trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân càng ngày càng đến với cuộc đời thật. Nhân vật ông lái đò như một người nghệ sĩ tài hoa làm chủ sông nước và cuộc đời và họ có thể xuất hiện ở ngay cuộc sống quanh ta.

Hết.